Để sử dụng TheCanada.life, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

Loader

Những điều cần biết về việc Ngân hàng Nhật Bản tăng lãi suất

Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) đã tăng lãi suất chính sách chủ chốt lên mức cao nhất trong 30 năm vào thứ Sáu để giúp kiềm chế lạm phát, như dự đoán rộng rãi, và thị trường tài chính đã đón nhận động thái này một cách bình tĩnh.

Việc tăng 0,25 điểm phần trăm đã đưa lãi suất ngắn hạn chuẩn của BOJ lên 0,75%, mức cao nhất kể từ tháng 9 năm 1995. Điều này sẽ làm tăng chi phí cho các khoản vay thế chấp và các khoản vay khác, nhưng cũng làm tăng lợi suất tiền gửi tiết kiệm.

“Rất có thể tiền lương và giá cả sẽ tiếp tục tăng ở mức vừa phải,” Thống đốc BOJ Kazuo Ueda nói với các phóng viên. “Rủi ro đối với nền kinh tế đã giảm bớt, nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác.”

Lạm phát từ lâu đã duy trì ở mức cao hơn mục tiêu khoảng 2% của BOJ. Mức lạm phát là 3% vào tháng 11, không bao gồm chi phí thực phẩm tươi sống dễ biến động.

Mức lãi suất 0,75% vẫn còn thấp so với hầu hết các tiêu chuẩn, nhưng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã duy trì mức lãi suất này ở mức gần hoặc dưới 0 trong nhiều năm, nhằm mục đích vực dậy nền kinh tế khỏi tình trạng giảm phát. Kể từ khi đại dịch bùng phát, hầu hết các ngân hàng trung ương khác, như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), đã tăng lãi suất để đối phó với lạm phát tăng vọt và sau đó bắt đầu cắt giảm lãi suất để giúp nền kinh tế đang chậm lại của họ phục hồi.

Nền kinh tế Nhật Bản đã suy giảm với tốc độ hàng năm là 2,3% trong quý vừa qua, nhưng tâm lý kinh doanh được cải thiện và áp lực giá cả đã khiến BOJ phải nhượng bộ và tăng lãi suất. Dưới đây là một số điều cần biết về quyết định này.

Lãi suất của Nhật Bản tăng trong khi các nước khác giảm

Kể từ khi bong bóng kinh tế Nhật Bản vỡ vào đầu những năm 1990s, ngân hàng trung ương đã duy trì chi phí vay thấp để khuyến khích chi tiêu nhiều hơn từ các doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Lãi suất thấp hơn cũng đã giúp ngân hàng trung ương quản lý khoản nợ quốc gia khổng lồ của đất nước, gần gấp ba lần quy mô nền kinh tế.

Khi dân số Nhật Bản già đi và bắt đầu giảm, nền kinh tế nước này đã chậm lại và dẫn đến giảm phát, hay giá cả giảm do nhu cầu yếu. Ngay cả với tín dụng giá rẻ, đầu tư vẫn trì trệ, kìm hãm tăng trưởng kinh tế.

Đầu năm 2013, ngân hàng trung ương đã tung ra một gói kích thích tiền tệ khổng lồ, cắt giảm lãi suất và mua trái phiếu chính phủ cùng các chứng khoán khác để bơm thêm tiền vào nền kinh tế. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát, lãi suất chuẩn ở mức âm 0,1%. Ngân hàng Nhật Bản chỉ bắt đầu tăng lãi suất vào năm 2024, lần tăng đầu tiên sau 17 năm, sau khi lạm phát ổn định trên mức mục tiêu khoảng 2%.

Đồng yên Nhật yếu hơn đã đẩy lạm phát lên cao.

Đồng yên Nhật đã suy yếu so với đô la Mỹ và nhiều loại tiền tệ chính khác. Vì vậy, người tiêu dùng và các công ty Nhật Bản hiện phải trả nhiều tiền hơn cho thực phẩm nhập khẩu, nhiên liệu và các mặt hàng khác cần thiết để duy trì hoạt động của nền kinh tế lớn thứ tư thế giới.

Nhu cầu đầu tư mạnh mẽ vào cổ phiếu bằng đô la của các công ty liên quan đến sự bùng nổ trí tuệ nhân tạo cũng đã kéo tiền ra khỏi đồng yên và đổ vào đô la.

Vì vậy, lạm phát đã tăng nhanh hơn tiền lương, gây áp lực lên ngân sách hộ gia đình và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.

Lãi suất cao hơn sẽ làm tăng giá trị của đồng yên so với đô la, có khả năng thu hút đầu tư vào Nhật Bản để tìm kiếm lợi suất cao hơn bằng đồng yên. Điều đó có thể đẩy đồng yên tăng cao hơn, do Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã phát tín hiệu rằng họ dự kiến sẽ tiếp tục tăng lãi suất.

“Lập trường của BOJ đối với việc tăng lãi suất phản ánh thực tế rằng lạm phát đang trở nên trầm trọng,” Kei Fujimoto, một nhà kinh tế cấp cao tại SuMi Trust, cho biết trong một bài bình luận. “Nếu các yếu tố như sự mất giá hơn nữa của đồng yên đẩy nhanh lạm phát trong tương lai, thì tốc độ tăng lãi suất cũng có thể tăng lên tương ứng.”

Thị trường thế giới thờ ơ

Việc tăng lãi suất theo kế hoạch đã được truyền thông Nhật Bản đưa tin trước đó, giúp các nhà đầu tư có lợi thế trong việc điều chỉnh danh mục đầu tư của họ.

Ban đầu, đồng yên suy yếu sau khi tăng lãi suất hôm thứ Sáu, khi đô la tăng lên 157 yên, gần gấp đôi mức năm 2012 và gần mức cao nhất trong năm nay.

Tuy nhiên, ngay cả những thay đổi nhỏ về lãi suất cũng có thể có tác động lớn. Các nhà phân tích dự báo rằng lãi suất cao hơn ở Nhật Bản có thể làm suy yếu chiến lược đầu tư được gọi là "giao dịch chênh lệch lãi suất". Chiến lược này bao gồm việc các nhà đầu tư vay tiền yên với lãi suất thấp và sau đó sử dụng số tiền đó để đầu tư vào các tài sản sinh lời cao hơn ở những nơi khác.

Giao dịch chênh lệch lãi suất rất sinh lời khi cổ phiếu và các khoản đầu tư khác tăng giá, nhưng thua lỗ có thể leo thang nếu nhiều nhà giao dịch chịu áp lực phải bán cổ phiếu hoặc các tài sản khác cùng một lúc.

Lãi suất cao hơn ở Nhật Bản cũng có thể làm giảm nhu cầu đối với các tài sản khác, bao gồm cả tiền điện tử. Tuần trước, kỳ vọng về việc tăng lãi suất đã khiến giá bitcoin, chẳng hạn, giảm xuống dưới 86.000 đô la. Nó đã tăng vọt lên mức cao kỷ lục gần 125.000 đô la Mỹ vào đầu tháng 10. Bitcoin được giao dịch ở mức khoảng 88.000 đô la vào đầu ngày thứ Sáu.

Rủi ro đối với Nhật Bản

Việc đánh giá thời điểm và quy mô của những thay đổi về lãi suất và các chính sách tiền tệ khác là thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng trung ương, bởi vì cần thời gian để những động thái này lan tỏa khắp nền kinh tế thực và thị trường tài chính.

Giống như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đang phải vật lộn để cân bằng giữa nhu cầu thúc đẩy hoạt động kinh doanh và tạo việc làm với yêu cầu cấp thiết phải kiềm chế lạm phát.

BOJ đã trì hoãn việc tăng lãi suất trước đó do những bất ổn về việc thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump có thể ảnh hưởng như thế nào đến các nhà sản xuất ô tô và các nhà xuất khẩu khác. Một thỏa thuận đặt thuế nhập khẩu của Mỹ đối với hàng hóa từ Nhật Bản ở mức 15%, giảm so với kế hoạch trước đó là 25%, đã giúp xoa dịu những lo ngại đó.

Ông Ueda, Thống đốc BOJ, lưu ý rằng với lạm phát ở mức khoảng 3%, lãi suất thực vẫn ở mức âm.

The Associated Press

ĐỌC THÊM

  • We accept We accept